Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2005-2006
Tài chính phát triển
Bài đọc
Cải cách hệ thống ngân hàng: con đường còn
lắm chông gai
Huỳnh Thế Du
1
CẢI CÁCH HỆ THỐNG NGÂN HÀNG:
CON ĐƯỜNG CÒN LẮM CHÔNG GAI
2005 có lẽ là năm sôi động nhất đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam. Tin tức về việc cổ
phần hoá Vietcombank, các ngân hàng nước ngoài trở thành cổ đông chiến lược của
sacombank, ACB... thường xuyên là tin chính trong các chuyên mục kinh tế, thậm chí
trên trang chủ của hầu hết các báo trong suốt 365 ngày qua. Tín hiệu này cho thấy, một
nền kinh tế thị trường, nền kinh tế có hệ thống tài chính đóng vai trò trung tâm, đang ngày
một rõ nét ở Việt Nam. Tuy nhiên, hệ thống tài chính do các ngân hàng đóng vai trò chủ
đạo có làm tốt vai trò hệ tuần hoàn cho nền kinh tế hay không là vấn đề sẽ được bàn luận
trong bài viết này.
Những điểm sáng của hệ thống ngân hàng Việt Nam
Có thể thấy rằng, các ngân hàng Việt Nam ngày càng có vai trò quan trọng đối với nền
kinh tế. Bắt đầu thời kỳ đổi mới, vai trò này hầu như chỉ là một con số không tròn trĩnh,
đó là chưa kể đến tác động của việc
cung tiền quá mức trong những năm
1985 tạo ra hiện tượng siêu lạm phát
và sự đổ bể của các hợp tác xã tín
dụng trong những năm 1989 đã để lại
những hậu quả hết sức nặng nề cho
nền kinh tế và lòng tin của công chúng
vào hệ thống ngân hàng giảm sút
nghiêm trọng. Nhưng đến thời điểm
hiện nay, ngân hàng đã là kênh huy
động, cung ứng vốn chính cho nền
kinh tế với 30% vốn đầu tư phát triển
hàng năm và 40% tổng nhu cầu vốn
của các doanh nghiệp được tài trợ bởi
tín dụng ngân hàng. Tuy còn thấp hơn
so với một số nước khác, nhưng tổng
dự nợ tín dụng qua hệ thống ngân hàng
vào cuối năm 2005 đã trên 60% GDP, cao hơn mức bình quân chung của các nước có thu
nhập thấp.
Không những thế, nếu trong những năm giữa thập niên 1990, phần lớn (hơn 3/4) nguồn
vốn của các ngân hàng đổ vào các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), thì đến cuối năm
2005, con số này chỉ còn khoảng 30%. Ngoài ra, các sản phẩm dịch vụ,